Hội chứng gương Giovannini có thật không?

Hội chứng Gương Giovannini không được cho là một hội chứng thực sự. Nó chỉ xảy ra hai lần trong đời thực và được cho là do ai đó đã bị tổn thương não nghiêm trọng, khiến người đó không còn hiểu biết gì về bản thân.

Nguyên nhân gây ra hội chứng gương?

Hội chứng gương xảy ra khi thai nhi bị tích tụ chất lỏng bất thường, trong khi người mẹ bị tiền sản giật, một tình trạng huyết áp cao. Nó thường được gọi là Hội chứng Gương vì sự giống nhau về các triệu chứng giữa mẹ và con.

Hội chứng gương là gì?

Hội chứng gương (MS) là một biến chứng hiếm gặp của tình trạng ứ nước thai nhi xuất hiện dưới dạng phù ba (thai, nhau thai cũng như mẹ) [1], trong đó người mẹ “soi gương” thai nhi bị phù nước. Hội chứng này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1892 bởi bác sĩ sản khoa người Scotland John William Ballantyne [2].

Hydrops có thể phân giải không?

Phân giải tự phát của Hydrops thai nhi không miễn dịch. Một báo cáo trường hợp thai nhi bị hydrops đặc trưng bởi cổ trướng và phù nề da đầu không rõ nguyên nhân được mô tả. Các hydrops phát triển ở tuần thứ 24 và giải quyết hoàn toàn mà không cần điều trị, dẫn đến một đứa trẻ sinh ra đủ tháng.

Một em bé có thể sống sót sau hydrops?

Các biến chứng có thể xảy ra của thai nhi hydrops là gì? Tình trạng sưng tấy nghiêm trọng xảy ra với hydrops có thể lấn át các hệ thống cơ quan của em bé. Khoảng 50% thai nhi bị hydrops không qua khỏi. Rủi ro về các vấn đề khác cũng cao đối với trẻ sinh ra với hydrops.

Em bé có thể sống sót sau hydrops bao lâu?

Triển vọng cho thai nhi bị hydrops phụ thuộc vào tình trạng cơ bản, nhưng ngay cả khi được điều trị, tỷ lệ sống sót của em bé vẫn thấp. Chỉ khoảng 20% ​​trẻ sơ sinh được chẩn đoán mắc chứng tràn dịch tinh mạc trước khi sinh sẽ sống sót sau khi sinh, và trong số những trẻ sơ sinh đó, chỉ một nửa sẽ sống sót sau khi sinh.

Làm thế nào có thể phát hiện sớm thai nhi bị tràn dịch màng phổi?

Với việc ghi nhận hydrops sớm thông qua việc tăng cường sử dụng cả siêu âm định kỳ 3 tháng đầu thai kỳ và siêu âm sàng lọc định kỳ ở tuần 18–22, tỷ lệ mắc bệnh có thể cao hơn. Dữ liệu của Phần Lan từ những phụ nữ được kiểm tra dị tật định kỳ khi thai được 20 tuần tuổi cho thấy tỷ lệ mắc bệnh là 1 trên 1700.

Hydrops ở thai nhi có di truyền không?

Ba mươi (5,5%) và 35 (2,8%) trường hợp hydrops được tìm thấy trong các nhóm khám nghiệm tử thi thai nhi và sơ sinh, tương ứng. Nguyên nhân do di truyền chiếm 35%. Một cuộc tìm kiếm cẩn thận các nguyên nhân di truyền đã được báo cáo trước đây của chứng hydrops ở thai nhi đã chỉ ra 64 căn nguyên khác nhau.

Điều gì gây ra hydrops không miễn dịch?

Hydrops không miễn dịch, loại phổ biến nhất, là do tình trạng sức khỏe của thai nhi hoặc dị tật bẩm sinh ảnh hưởng đến khả năng quản lý chất lỏng của cơ thể.

Tại sao hydrops Fetalis không tương thích với sự sống?

Dạng nặng nhất là hội chứng Hb Barts hydrops thai nhi, do mất cả 4 gen, thường không tương thích với sự sống.

Hội chứng hydrops thai nhi là gì?

Tràn dịch màng phổi (ứ dịch thai nhi) là một tình trạng thai nhi nghiêm trọng được định nghĩa là sự tích tụ bất thường của chất lỏng trong hai hoặc nhiều ngăn của thai nhi, bao gồm cổ trướng, tràn dịch màng phổi, tràn dịch màng ngoài tim và phù da. Ở một số bệnh nhân, nó cũng có thể liên quan đến chứng đa ối và phù nhau thai.

Nguyên nhân gây tràn dịch màng phổi thai nhi?

Nguyên nhân cơ bản của tràn dịch màng phổi ở thai nhi có thể bao gồm các vấn đề di truyền, nhiễm trùng và tình trạng tim hoặc phổi. Triển vọng cho từng trường hợp phụ thuộc vào lượng chất lỏng trong ngực. Lượng chất lỏng cao có thể dẫn đến suy tim thai (hydrops) và giảm sản phổi (phổi kém phát triển).

Tràn dịch màng ngoài tim thai nhi phổ biến như thế nào?

Tràn dịch màng ngoài tim có thể được tìm thấy đơn lẻ hoặc kết hợp với các bất thường khác nhau được mô tả trong y văn (Bảng 1). Tỷ lệ mắc bệnh khoảng 0,64–2,00%. Cần phải thực hiện siêu âm nghiên cứu thai nhi toàn diện để loại trừ các nguyên nhân khác nhau mà nó có liên quan.

Tràn dịch màng ngoài tim nghiêm trọng như thế nào?

Tràn dịch màng ngoài tim gây áp lực lên tim, ảnh hưởng đến chức năng của tim. Nếu không được điều trị, nó có thể dẫn đến suy tim hoặc tử vong.